Có thân hình nhỏ bé hơn gấu nâu và gấu đen, gấu lợn (Melursus ursinus) sở hữu một cái bờm xù xì và móng vuốt hình liềm. Con cái trung bình có thể dao động từ 55 đến 110 kg, trong khi con đực trung bình nặng từ 80 đến 150 kg. Tuy nhiên, có những cá thể gấu lợn được ghi nhận có thể nặng tới gần 200 kg.
Gấu lợn có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ và phân bố trên khắp Ấn Độ, Sri Lanka và Nepal. Chúng là một loài động vật ăn tạp, chủ yếu sống nhờ trái cây, mối và kiến. Loài này thường sử dụng môi dưới dài để hút côn trùng . Trong khi đó, móng vuốt cong của chúng rất thích hợp để đào những tổ mối và kiến. Do mất môi trường sống, IUCN đã liệt kê loài này là loài có thể đứng trước bờ vực tuyệt chủng.
Còn được gọi là gấu mặt trăng hoặc gấu ngực trắng, gấu đen Châu Á (Ursus thibetanus) dễ nhận biết nhất do vết trắng hình chữ v trên ngực của nó. Chúng có thân hình nhỏ và mảnh mai hơn gấu nâu, gấu đen Châu Á đực nặng đến 200 kg. Con cái của loài này nặng đến 125 kg.
Có nguồn gốc từ dãy Himalaya, tuy nhiên loài này cũng được phát hiện tại nhiều môi trường sống khác bao gồm tiểu lục địa Ấn Độ, miền nam Iran, Bán đảo Triều Tiên, miền đông Nga, miền bắc Nhật Bản và Đài Loan. Chúng thường ngủ trên cây và ngủ đông trong hang động hoặc những thân cây rỗng. Chế độ ăn của loài này bao gồm côn trùng, trái cây, các loại hạt, nấm, mật ong và ngũ cốc. Hiện tại, IUCN đã liệt kê loài gấu đen Châu Á là loài sẽ nguy cấp. Các mối đe dọa chính của nó bao gồm mất môi trường sống và săn trộm.
Có tên khoa học là Tremarctos ornatus, đây là loài gấu mặt ngắn cuối cùng còn sót lại trên thế giới. Còn được gọi là gấu Andean hoặc gấu núi, những con gấu này sở hữu những mảng màu nhạt trên mặt và ngực của chúng.
Gấu mặt ngắn Andes là loài gấu duy nhất còn tồn tại có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Chúng phân bố trải dài từ Venezuela đến Colombia, Ecuador, Peru, Bolivia và Argentina. Tuy nhiên, chúng hầu như chỉ được tìm thấy trong dãy núi Andes. Giống như gấu đen và gấu chó, loài gấu này dành phần lớn thời gian ở trên cây. Chế độ ăn uống của chúng bao gồm cây xương rồng, quả hạch, tim tre, trái cây và lá cọ, nhưng đôi khi chúng cũng săn hươu, nai, llama, gia súc và các loài gặm nhấm nhỏ để bổ sung dinh dưỡng.
Gấu đen Mỹ (Ursus americanus) là loài gấu nhỏ nhất và phổ biến nhất ở Bắc Mỹ. Gấu đen Mỹ nặng đến 300 kg đối với những con đực trưởng thành, và đến 79 kg đối với những con cái trưởng thành.
Mặc dù tên của chúng đã miêu tả màu lông của loài này, nhưng gấu đen Mỹ cũng có thể có màu nâu hoặc thậm chí là vàng. Chúng trải dài khắp vùng tây bắc và đông bắc Hoa Kỳ, quanh vùng Hồ Lớn, khắp Canada và đến Alaska. Gấu đen Mỹ chủ yếu sống nhờ vào côn trùng, hươu đuôi trắng, nai sừng tấm, nai con và cá.
Còn được gọi là gấu nâu Châu Âu hoặc gấu thông thường, gấu nâu Á-Âu (Ursus arctos arctos) là một trong những phân loài phổ biến nhất của gấu nâu. Loài này khi trưởng thành có thể nặng từ 260 đến 360 kg.
Gấu nâu Á-Âu từng tồn tại trên khắp lục địa Âu-Á. Ngày nay, phạm vi của chúng chủ yếu giới hạn ở Bắc và Đông Âu, Nga, các quốc gia Baltic và Balkan. Tuy nhiên, các quần thể biệt lập vẫn tồn tại ở Tây Ban Nha, Ý, Pháp, Tây Nam Á, Trung Quốc và Nhật Bản. Chế độ ăn của gấu nâu Á-Âu bao gồm rễ cây, quả mọng, quả hạch, côn trùng và cá. Chúng cũng được biết là tấn công gia súc và săn các loài động vật có vú lớn và nhỏ.
Một trong những phân loài phụ nổi tiếng nhất của gấu nâu chính là gấu xám (Ursus arctos horribilis), loài này có thể nặng tới gần 300 kg.
Trong lịch sử, lãnh thổ của gấu xám trải dài trên hầu hết Bắc Mỹ. Ngày nay, phạm vi của chúng được giới hạn ở tây bắc Hoa Kỳ, Alaska, tây và bắc Canada. Loài này thường săn mồi các động vật lớn, bao gồm nai sừng tấm, nai, bò rừng và tuần lộc. Các quần thể tiếp cận với cá hồi và cá vược có thể phát triển đặc biệt lớn, chẳng hạn như loài gấu xám ở Alaska và British Columbia. Gấu xám được IUCN liệt kê là bị đe dọa ở vùng tiếp giáp Hoa Kỳ và có nguy cơ tuyệt chủng ở Canada.
Một họ hàng gần của gấu nâu Á-Âu, gấu nâu Ussuri (Ursus arctos lasiotus) còn được gọi là gấu xám đen hoặc gấu nâu Ezo. Vẻ ngoài của nó tương tự như gấu nâu Kamchatka, mặc dù nó sở hữu hộp sọ hẹp hơn và trán ngắn hơn. Gấu đực trưởng thành có cân nặng dao động từ 400-550kg, con cái thường nhỏ hơn con đực.
Gấu nâu Ussuri chủ yếu sống ở miền đông nước Nga và các đảo xung quanh, bán đảo Triều Tiên, đông bắc Trung Quốc và miền bắc Nhật Bản. Chế độ ăn của chúng chủ yếu bao gồm thực vật, chồi cỏ, nhựa cây, hạt, quả hạch và quả mọng. Tuy nhiên, chúng cũng sẽ săn bắt và tiêu thụ các loài động vật có vú nhỏ, chim, cá và côn trùng. Tùy thuộc vào khu vực, quần thể gấu nâu Ussuri có thể được liệt kê là ổn định hoặc bị đe dọa.
Gấu nâu Kamchatka (Ursus arctos beringianus) là phân loài gấu nâu lớn nhất ở Âu-Á. Những con gấu nâu Kamchatka nặng nhất có thể nặng tới 650 kg, mặc dù trọng lượng trung bình của loài này sẽ thay đổi theo mùa.
Gấu nâu Kamchatka được lấy tên theo bán đảo Kamchatka, nơi sinh sống chủ yếu của loài này. Tuy nhiên, cũng cúng sinh sống trên đảo Karaginsky, quần đảo Kuril, quần đảo Shantar và đảo Saint Lawrence. Chế độ ăn uống của loài này chủ yếu bao gồm các loại quả mọng, các loại hạt, cá hồi và các loài động vật có vú ở biển. Ước tính có khoảng 10.000-15.000 con gấu nâu Kamchatka tồn tại trong tự nhiên.
Phân loài gấu nâu lớn nhất, gấu Kodiak (Ursus arctos middendorffi ) còn được gọi là gấu nâu Alaska, nó có ngoại hình tương tự như các loài gấu nâu khác, với đặc điểm nổi bật là kích thước vô cùng to lớn, cá thể lớn nhất bên ngoài tự nhiên từng được ghi nhận nặng gần 800 kg.
Gấu Kodiak có nguồn gốc từ quần đảo Kodiak. Quần đảo này là nơi duy nhất trên thế giới có gấu Kodiak sinh sống, và nó cũng là nguồn gốc tên gọi của chúng. Chế độ ăn uống của họ bao gồm nhiều loại thực phẩm địa phương, bao gồm quả mọng, rong biển, động vật không xương sống sống ở bãi biển và cá hồi.
Gấu Bắc Cực (Ursus maritimus) là loài gấu lớn nhất trên thế giới và cũng là loài ăn thịt lớn nhất trên cạn còn tồn tại trên hành tinh của chúng ta. Con đực trưởng thành nặng từ 400-800kg, con cái nặng từ 200-300kg.
Gấu Bắc Cực sống trong vòng Bắc Cực nhưng cũng đi lang thang khắp các vùng phía bắc của Greenland, Canada, Nga, Alaska và Na Uy. Tên khoa học của chúng có nghĩa là gấu biển, ám chỉ khả năng bơi một quãng đường dài trong nước đóng băng. Chế độ ăn của chúng chủ yếu là thịt hải cẩu, nhưng chúng cũng ăn hải mã, cá voi nhỏ và cá. Số lượng gấu Bắc Cực toàn cầu được ước tính là từ 20.000 đến 30.000 con. Do mối đe dọa của biến đổi khí hậu, ô nhiễm và các ảnh hưởng khác của con người, IUCN đã liệt kê gấu Bắc Cực là loài sẽ nguy cấp.
Tham khảo: ZME; Zhihu; AFP