Ngày 10 tháng 11 năm1983 tại khách sạn Plaza ở New York Microsoft công bố hệ điều hành Microsoft Windows, thế hệ hệ điều hành tiếp theo cung cấp giao diện đồ họa cùng môi trường đa nhiệm cho các máy tính IBM. Kể từ thời điểm đó, hệ điều hành này trải qua nhiều biến động khác nhau trước khi trở thành 1 nền tảng phổ biến, thống trị trên các PC ngày nay.
Windows có thể đã mang tên Interface Manager
Microsoft hứa sẽ đưa sản phẩm mới lên kệ vào tháng 4, 1984. Windows đáng ra sẽ mang tên Interface Manager (quản lý giao diện) nếu như phụ trách marketing lúc đó là Rowland Hanson không thuyết phục Bill Gates rằng Windows là một cái tên tuyệt vời hơn rất nhiều.
Windows và Top View của IBM
Cùng trong tháng này, Bill Gates đã giới thiệu cho IBM phiên bản beta của Windows. Tuy nhiên, phản ứng lúc đó của hãng này khá mờ nhạt bởi thời điểm đó, IBM cũng đang phát triển 1 hệ điều hành riêng của hãng với tên gọi Top View. IBM tỏ vẻ không hào hứng lắm với Windows như cách họ chào đón MS-DOS, hệ điều hành mà Microsoft giới thiệu năm 1981 và đưa máy tính IBM trở thành một sản phẩm bán rất chạy thời điểm đó.
Top View ra mắt vào tháng 2 năm 1985. Nó giống 1 trình quản lý chương trình đa nhiệm không có bất cứ tính năng giao diện đồ họa nào. IBM hứa hẹn phiên bản tiếp theo của Top View sẽ được bổ sung những tính năng này. Tuy nhiên, lời hứa này không được hiện thực hóa khi Top View bị khai tử 2 năm sau đó.
Bill Gates lấy ý tưởng về giao diện từ Apple
Không có gì phải nghi ngờ, Bill Gates nhận ra một giao diện đồ họa người dùng thành công sẽ kéo theo sự thành công của máy tính IBM. Gates trước đó đã nhìn thấy máy tính Lisa và sau này là Macintosh của Apple đã thành công như thế nào với giao diện đồ họa tuyệt vời của chúng.
Cạnh tranh
Là 1 sản phẩm mới, Windows phải đối mặt với các đối thủ tiềm năng từ Top View của IBM cùng các đối thủ khác. Thời điểm ra mắt với Windows còn có các hệ điều hành VisiOn của VisiCorp. Một OS khác là GEM (Graphics Environment Manager) của hãng Digital Research ra mắt đầu năm 1985. Điểm yếu của 2 OS này là chúng thiếu sự hỗ trợ từ các nhà phát triển hãng thứ 3.
Microsoft xuất xưởng Windows 1.0 vào ngày 20 tháng 11 năm 1985 và trở thành hãng phần mềm hàng đầu năm 1988.
Apple phản kháng
Phiên bản 1.0 bị đánh giá là còn khá đơn giản, còn nhiều lỗi và chạy chậm. Không những thế, mọi chuyện còn trở nên tồi tệ bởi lúc này Microsoft bị Apple kiện vi phạm bản quyền. Tháng 9 năm 1985, các luật sư của Apple khuyến cáo Bill Gates rằng Windows 1.0 vi phạm bản quyền và bằng sang chế của hãng này. Apple cho rằng Microsoft đã ăn cắp bí mật thương mại của mình và các tính năng menu xổ xuống, các cửa sổ chương trình hình vuông cũng như tính năng hỗ trợ điều khiển bằng chuột máy tính là Microsoft đã ăn cắp.
Thương vụ của thế kỉ
Bill Gates cùng chuyên gia tư vấn hàng đầu của Microsoft lúc đó là Bill Neukom đã quyết định sẽ thỏa thuận với Apple về vấn đề bản quyền và Apple đồng ý. Theo đó, Microsoft sẽ được phép sử dụng các tính năng đã vi phạm bằng sáng chế của Apple trong Windows 1.0 và tất cả các chương trình phần mềm của Microsoft trong tương lai. Đây là một quyết định rất sáng suốt và có ảnh hưởng rất lớn đến gã khổng lồ phần mềm này.
Windows 1.0 vẫn chỉ có tiếng nói rất ít trên thị trường cho đến tháng 1 năm 1987, cho đến khi 1 chương trình tương thích với hệ điều hành này xuất hiện: Aldus PageMaker 1.0. Sau đó không lâu, Microsoft ra mắt 1 chương trình dạng bảng tính có tên gọi Excel. Các phần mềm phổ biến và có ích khác như Word và Corel Draw đã giúp thúc đẩy Windows. Tuy nhiên, Microsoft nhận ra rằng hệ điều hành của mình cần sự giúp sức nhiều hơn nữa từ các nhà phát triển.
Windows 2.0
Vào ngày 9 tháng 10 năm 1987, Microsoft phát hành Windows 2.0 với nhiều cải tiến mới. Windows phiên bản này trông khá giống Mac. Các biểu tượng minh họa cho các file và chương trình. Cải tiến khả năng hỗ trợ cho các thẻ nhớ cắm ngoài. Các cửa sổ chương trình có thể nằm chồng lên nhau. Apple lúc này lại thấy có sự tương đồng và đâm đơn kiện vào năm 1988 chống lại Microsoft, cho rằng hãng này đã phá vỡ các thỏa thuận bản quyền mà 2 công ty đã kí năm 1985.
Microsoft đã phản ứng lại rằng thỏa thuận bản quyền ghi rõ họ có quyền sử dụng các tính năng mà Apple sở hữu. Sau vụ kiện tụng kéo dài 4 năm, Microsoft giành thắng lợi. Apple cho rằng Microsoft đã vi phạm tất cả 170 bằng sáng chế và bản quyền của mình trong khi tòa án kết luận Microsoft chỉ vi phạm 9 bằng sáng chế. Microsoft sau đó thuyết phục tòa rằng các bằng sáng chế đó không nằm trong luật bản quyền. Bill Gates cũng cho rằng Apple lấy ý tưởng giao diện đồ họa người dùng do hãng Xerox phát triển dành cho máy tính Alto và Star của họ.
Vào ngày 1 tháng 6 năm 1993, thẩm phán Vaughn R. Walker của Tòa án quận Bắc California đưa ra phán quyết có lợi cho Microsoft trong cuộc chiến pháp lý giữa Apple, Microsoft và Hewlett-Packard (HP). Các cáo buộc bản quyền cuối cùng nhằm vào Windows phiên bản 2.03 và 3.0 đã bị loại bỏ. Người ta đặt ra 1 câu hỏi lúc đó là nếu như Microsoft thua trong các vụ kiện bản quyền đó, có lẽ Windows sẽ không bao giờ có được vị trí thống trị như ngày hôm nay.
Tháng 5 năm 1990, Windows 3.0 được phát hành. Trình quản lý chương trình cũng như biểu tượng hệ thống ở hệ điều hành này đã được cải tiến. Bên cạnh đó là những thay đổi ở trình quản lý file, hỗ trợ 60 màu, độ ổn định và tốc độ cũng tăng lên. Quan trọng nhất, Windows 3.0 giành được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các hãng thứ 3. Các lập trình viên bắt đầu viết các chương trình tương thích với hệ điều hành này và người dùng bắt đầu tìm thấy lý do để móc túi bỏ tiền mua nó. 3 triệu bản Windows 3.0 đã được bán trong năm đầu tiên. Kỉ nguyên Windows bắt đầu đến từ đây.
Tháng 4 năm 1992, Windows 3.1 được phát hành. 3 triệu bản được bán trong 2 tháng đầu tiên. Font chữ TrueType cho phép thay đổi kích cỡ được bổ sung. Hệ điều hành cho phép khả năng chạy đa phương tiện, các ứng dụng cũng có thể khởi động lại cùng nhiều tính năng khác. Windows 3.x trở thành hệ điều hành số 1 dành cho PC cho tới năm 1997 sau khi bị Windows 95 tiệm ngôi.
Windows 95
Ngày 24 tháng 8 năm 1995, Windows 95 chính thức ra mắt và gây nên cơn sốt mua sắm thời điểm đó. Đây là hệ điều hành được đánh giá rất thân thiện với người dùng. Nó được tích hợp giao thức TCP/IP, mạng dial-up, cho phép đặt tên file dài.
Windows 98
Tháng 6 năm 1998, Microsoft ra mắt Windows 98. Đây là hệ điều hành Windows cuối cùng trên nền nhân MS-DOS. Windows 98 tích hợp trình duyệt Internet của Microsoft IE4, hỗ trợ các thiết bị đầu vào mới như USB.
Windows 2000
Windows 2000 ra mắt năm 2000 và được xây dựng trên nền công nghệ NT của Microsoft. Từ phiên bản này trở đi, Microsoft bổ sung tính năng hỗ trợ cập nhật phần mềm tự động qua Internet.
Windows XP
Theo Microsoft, " XP trong Windows XP có nghĩa là experience (trải nghiệm), tượng trưng cho những trải nghiệm mới mà hệ điều hành này sẽ mang lại cho người dùng máy tính. Windows XP được phát hành vào tháng 10 năm 2001, hỗ trợ đa phương tiện tốt hơn, hiệu năng cao hơn các phiên bản trước. Windows XP là phiên bản cực kỳ thành công của Microsoft.
Windows Vista
Sau 5 năm nghiên cứu, Microsoft cho ra đời Windows Vista với nhiều cải tiến như Sidebar và Windows Defender, tuy nhiên Vista không được phổ biến lắm do hệ điều hành này gây nặng máy và chiếm nhiều tài nguyên hơn so với XP.
Windows 7
Windows 7 nâng cấp vượt bậc hơn Vista với giao diện đẹp mắt, chiếm ít tài nguyên và hiệu suất sử dụng rất tốt. Hệ điều hành này cũng thành công không kém gì Windows XP.
Windows 8
Windows 8 được dự kiến sẽ là sự kết hợp giữa máy tính bảng, điện thoại và PC. Hiện nay Windows 8 mới chỉ có bản dành cho các nhà phát triển, dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2012.