- Theo Trí Thức Trẻ | 15/11/2017 09:14 PM
Như các bạn đã biết, trong lúc trò chơi Super Mario Odyssey đang gây sốt trên hệ máy Nintendo Switch, các fan của chàng thợ sửa ống nước lại tiếp tục đón nhận một tin vui nữa. Theo tờ The Wall Street Journal, xưởng hoạt hình Illumination Entertainment sắp sửa đạt được thỏa thuận làm phim về Mario với hãng Nintendo.
Illumination nằm dưới trường Universal là một trong những studio hoạt hình thành công nhất hiện tại. Họ là đơn vị đứng sau hàng loạt tác phẩm bom tấn như loạt Despicable Me, Minions hay The Secret Life of Pets. Mới nhất, Despicable Me 3 của họ ra mắt hồi mùa hè và là tác phẩm điện ảnh thứ ba trong năm nay đạt doanh thu trên 1 tỷ USD toàn cầu.
Trong quá khứ, Nintendo có ký ức không mấy tốt đẹp khi hợp tác với Hollywood. Phiên bản điện ảnh người đóng của Mario ra đời năm 1993 với sự tham gia của Bob Hoskins và John Leguizamo là một thảm họa điện ảnh, và luôn nằm trong danh sách các phim chuyển thể từ trò chơi tồi tệ nhất.
Bộ phim phát hành năm 1993, lấy tên Super Mario Bros chính là bộ phim đầu tiên được lịch sử ghi nhận là bộ phim điện ảnh đầu tiên lấy chủ đề, nhân vật cũng như bối cảnh ăn theo game. Thế nhưng điều bất ngờ hơn, bộ phim ăn theo đầu tiên này cũng là một bom xịt theo đúng nghĩa đen, với doanh thu ê chề và những lời chê bai thậm tệ của giới chuyên môn. Bản thân những người đạo diễn bộ phim này cũng thừa nhận đây là thất bại thảm hại nhất trong sự nghiệp của họ.
Roger Ebert, nhà phê bình phim ảnh nổi tiếng đã coi Super Mario Bros là bộ phim tệ nhất năm 1993. Nó tốn 48 triệu USD để sản xuất, nhưng chỉ thu về vỏn vẹn chưa đầy 21 triệu USD. Cốt truyện dở tệ, quá xa rời bối cảnh game, cùng với đó là những lần chỉnh sửa kịch bản nhiều đến mức diễn viên mỗi ngày đến trường quay lại học lại lời thoại mới toanh, có thể khẳng định một điều rằng, câu chuyện phía sau bộ phim Super Mario Bros mới thực sự "drama" và thậm chí còn hấp dẫn hơn nhiều nội dung của bộ phim này nữa!
Không cần bàn cãi nhiều. Super Mario Bros, ra mắt năm 1985 trên NES là một thành công rực rỡ cả về mặt tài chính lẫn phê bình. Ai cũng biết đến Mario, ngay cả những đứa trẻ sinh năm 2000 giờ đây khi nhìn thấy hình ảnh anh chàng thợ sửa ống nước với bộ quần áo yếm đỏ chót, họ sẽ nhận ra ngay và reo lên: "Mario!" Sau ba phiên bản cực kỳ thành công trên NES và một bản sắp ra mắt rất được cộng đồng game thủ đón nhận và ngóng chờ trên SNES, Mario đã trở thành nhân vật dễ nhận ra nhất trong suốt lịch sử làng game.
Thành công rực rỡ như vậy ở những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX khiến cho Nintendo vô cùng hy vọng vào việc Mario sẽ có được ma lực thu hút khán giả đến phòng vé. Trước đó, những game thủ 8x nước ngoài có cả... hộp đồ ăn trưa có hình Mario, chăn Mario, bật TV là có hoạt hình Mario, đến cả hộp ngũ cốc ăn sáng cũng có hình anh thợ sửa ống nước. Mario đã len lỏi vào từng ngõ ngách của nền văn hóa hiện đại.
Năm 1989, Nintendo tạo ra một bộ phim nhưng không thành công. Nó có tên The Wizard. Bộ phim do Universal Pictures sản xuất và bị giới phê bình nhận xét là... "một đoạn quảng cáo của Nintendo, dài 96 phút đồng hồ". Đến lần này, Nintendo thực sự không muốn lặp lại sai lầm trong quá khứ, và cần một đội ngũ làm phim thực sự hiểu ý họ.
Đến mùa thu năm 1990, Nintendo tạo ra một cú shock cho cả Hollywood khi bán quyền làm phim về Mario với giá... 2 triệu USD! Hãng được chuyển bản quyền? Thậm chí đó còn là một cái tên bất ngờ hơn nữa: Light Motive, một studio phim xa lạ với cả thị trường phim ảnh nước Mỹ. Hai nhà sản xuất Jake Eberts và Roland Joffe chịu trách nhiệm với bộ phim Super Mario Bros. Điều bất ngờ hơn cả là, Jake cùng Roland không có mấy kinh nghiệm làm những bộ phim gia đình vui nhộn dễ thưởng thức. Tác phẩm nổi tiếng nhất của họ chính là The Killing Fields, giành ba giải Oscar năm 1985.
Bộ đôi nhà sản xuất phim này không coi Mario là cơ hội thử thách khả năng sáng tạo của bản thân cũng như cách mà họ đưa thế giới tươi đẹp vui nhộn của Mario ra ngoài đời thực. Mà thay vào đó, họ chỉ quan tâm đến một thứ duy nhất: Tiền!
Khi đến gặp cố chủ tịch Nintendo Hiroshi Yamauchi, Joffe tưởng tượng ra một câu chuyện trước những gì phiên bản game đầu tiên ra mắt, với những khía cạnh hợp với khán giả lớn tuổi lẫn những đứa trẻ vốn rất yêu game. Thậm chí Joffe còn cho Nintendo một thứ mà chẳng studio lớn nào làm được: Quản lý sáng tạo và toàn bộ bản quyền bán đồ vật ăn theo phim và game. Nintendo coi đây chẳng khác gì một thử nghiệm lớn, và tin tưởng rằng, Mario quá ấn tượng để có thể thất bại.
Nhưng họ đã lầm, chỉ một thời gian rất ngắn sau, dự án phim trở nên bung bét khi biên kịch và đạo diễn không có tiếng nói chung. Một bên, các nhà biên kịch muốn tạo ra một bộ phim khai thác cuộc chiến giữa Mario và trùm rùa King Koopa, nhưng vẫn phải mô tả được tình cảm giữa hai anh em ruột thịt. Vợ chồng đạo diễn Rocky Morton và Annabel Jankel lại nghĩ khác. Họ muốn câu chuyện phải tăm tối hơn hẳn và có sự khác biệt so với game để khiến khán giả vừa không bị nhàm chán, lại vừa lôi kéo được khán giả mới chưa biết chút gì về Mario.
Thế là chúng ta có một bộ phim thảm họa. Vợ chồng đạo diễn vốn chỉ biết làm phim hoạt hình và MV ca nhạc, giờ đây cảm thấy hụt hơi trước một dự án quá lớn. Sau khi thiên thạch rơi xuống trái đất vài triệu năm về trước, nó không khiến khủng long tuyệt chủng mà thay vào đó tạo ra hai thế giới song song. Khủng long trong thế giới song song của phim vẫn sống và tiến hóa thành những sinh vật nửa người nửa bò sát, còn King Koopa thì muốn cai trị cả hai thế giới bằng mảnh thiên thạch có khả năng mở cổng kết nối giữa hai thế giới. Mario và Luigi vừa phải chặn đứng âm mưu của Koopa, vừa phải giúp đỡ công chúa Daisy.
Thậm chí cả hai đạo diễn bị ghét tới mức họ bị đoàn làm phim nói xấu công khai, không được can thiệp vào kịch bản và đến khi quay xong mang phim thô vào dựng hậu kỳ cũng không có mặt họ nữa. Sau này, cặp vợ chồng cho biết, bộ phim biến họ thành những "tên hủi của Hollywood. Ai cũng né tránh chúng tôi, chẳng còn công việc nào cho chúng tôi làm nữa".