Keen Folk – Đế chế thông minh và liều lĩnh nhất DotA 2

PV  - Theo TTVN / Trí Thức Trẻ | 10/05/2013 0:00 AM

Bộ tộc này không hề có phép thuật hay sức mạnh gì đặc biệt, bù lại họ lại có một trí thông minh trời phú và đôi bàn tay khéo léo nhất DotA 2.

Keen Folk là một bộ tộc tồn tại trong thế giới DotA 2. Họ thường rất dễ nhận ra với hình dáng giống những người lùn, bé người và thường có râu. Họ là những người công khai coi khinh ma thuật và cho rằng khoa học công nghệ mới là những phát minh vĩ đại nhờ trí óc thông minh có thể đánh bại hoàn toàn ma thuật.

Cũng như do quá bảo thủ như thế mà đôi khi họ phải chịu những hậu quả không thể dự đoán trước. Có vẻ, tộc Keen và Olgodi trong DotA 2 luôn có sự cạnh tranh nhau trong một thời gian rất dài. Tộc này bao gồm 5 thành viên: Tinker, Clockwerk, Sniper, Gyro và Alchemist. (Alchemist là cái thằng bé bé ngồi trên. Còn cái con to đùng là thú cưỡi của nó).

Boush the Tinker 

Keen Folk – Đế chế thông minh và liều lĩnh nhất DotA 2 1
“Ready, willing and fully enabled!".
(Sẵn sàng, quyết tâm và đầy đủ để hành động).

Từng là nhân vật chủ chốt cho các nghiên cứu về luật lệ, pháp tắc của tự nhiên, Boush the Tinker đã thành lập một phòng thí nghiệm dưới lòng đất của Violet Plateau luôn mịt mù sương khói, lãnh đạo các cuộc thí nghiệm về quy luật vận động của tự nhiên. Trong khi khinh bỉ các Pháp Sư vì đã mang lại những thương tổn cho thế giới, Boush cùng các Tinker khác trong phòng thí nghiệm đã ngạo mạn và mở ra một cánh cổng (portal), đầu bên kia của cánh cổng ấy là một lĩnh vực khác vượt xa sự nhận thức của người phàm, để rồi phải nhận lấy những cơn ác mộng cho chính họ. 

Thế nhưng cái giá phải trả quá đắt, phòng thí nghiệm bị nổ tan tành. Các Tinker cũng bị giết chết trong vụ nổ đó ngoại trừ Boush, nhờ một phép màu nào đó (cầm được Roshan chứ có gì đâu) đã trốn thoát. Nhờ vào tài trí và những công cụ máy móc mà ông mang theo, đồng thời cũng trở thành gã Tinker còn sống sót duy nhất sau thảm họa tại Violet Plateau.

Bản chất coi khinh ma thuật cũng như tin vào các thiết kế của mình mới là nhất. Hắn coi khinh tất cả. Kể cả tộc Keen cũng như các kẻ sử dụng ma thuật khác.

- “Rattletrap, all your parts are out of stock!” - (Rattletrap, các bộ phận của mi đều không có sẵn để thay thế). Nói với Clock.

- “Letting me out of your sight was your first mistake, Sniper!” - (Để ta thoát khỏi tầm mắt của mi là sai lầm đầu tiên, Sniper). Nói với Sniper.

- “Gyro, that craft of yours has made you dizzy” - (Gyro, cái thứ mi làm ra đã làm mi mất phương hướng) - Nói với Gyro.

- “What sort of loon believes in Alchemy?” - ( Giờ này còn thằng ngốc tin vào thuật giả kim sao?). Nói với Alchemist.

- “Science: One. Nature's Prophet: Nothing!” - (Khoa học: Số một. Nature’s Prophet: Vô nghĩa). Hoặc “Nature's profit, your loss!” - (Phế vật của thiên nhiên, mi thua rồi). Nói với Nature’s Prophet.

- “Warlock, you should put down your spell book and pick up a textbook!” - (Warlock, mi nên vứt bỏ sách phép và cầm sách giáo khoa đi). Nói với Warlock.

Kardel Sharpeye the Sniper

Keen Folk – Đế chế thông minh và liều lĩnh nhất DotA 2 2
"Why am I smiling? This is what trigger-happy looks like".
(Tại sao ta cười ư? Nó là cái giống như tiếng súng hạnh phúc thôi).

Kardel Sharpeye sinh ra tại một nơi heo hút nằm sâu trong thung lũng núi Knollen. Tại đây, từ thưở xa xưa, cư dân ở đây đã sinh sống bằng cách săn bắn các sinh vật kỳ quái, thứ được gọi là Steepstalker, thường bò ngang qua các vách đá phía trên thông làng của họ. Họ giết chúng từ xa, sau đó thu thập thi thể tại nơi mà chúng rơi xuống. 

Sharpeye là một trong số những xạ thủ giỏi nhất của cái bộ tộc kỳ lạ ấy, đối với hắn, súng đạn tựa như là một phần của cơ thể, và việc nhắm bắn cũng chỉ đơn giản như một cái chạm nhẹ.

Tuy vậy, Kardel Sharpeye the Sniper đã phải rời khỏi quê hương cùng các thân nhân, vì bị nguyền rủa bởi chính chính kỹ thuật bắn của mình. Và, hắn sẽ không được chào đón trở về, cho đến khi phần còn lại của lời tiên tri được thực hiện. Hắn sẽ trở thành một nhân vật vĩ đại trên chiến trường. Hắn dùng súng nên thường rất khinh thường những hero sử dụng “vũ khí thô sơ” (Cung và dao kiếm). Nên mỗi khi giết được một hero như này, hắn luôn cười tỏ ra khinh thường đối thủ:

- “Oh, feather bullets!” - (Ô. Đạn lông chim). Hoặc “Heh, crummiest gun I've ever seen” - (He he. Thứ vũ khí hạ đẳng nhất mà ta từng thấy).  Nói sau khi giết một hero dùng Cung.

- “You pull a knife, I pull a gun” - (Mi rút dao, ta rút súng). Hoặc “Inconceivable!” - (đùa anh à?). Nói sau khi giết được một hero dùng dao hoặc kiếm.

Keen Folk – Đế chế thông minh và liều lĩnh nhất DotA 2 3
"Some assembly required".
“Các bộ phận đã được lắp ráp”.

Rattletrap, tương tự như hai người họ hàng xa Tinker và Sniper, cùng rất nhiều những đồng bào khác cũng thuộc tộc Keen Folk, đã tự bù đắp cho cái vóc dáng nhỏ bé của mình bằng trí tuệ. Là cháu nội của một người thợ sửa đồng hồ nhưng hắn đã thực sự thay đổi khi cho tới khi một cuộc chiến tranh kéo tới từ phía bên kia núi, phá hủy các ngôi làng và những cư dân vô tội của nó.

Người thợ đồng hồ đáng thương đó tự trách bản thân vì những công cụ của mình đã không có chút hữu dụng trong chiến đấu, và Rattletrap cũng không bao giờ bào chữa. Sau khi mai táng cha già trong đống đổ nát của thông làng, Rattletrap bắt đầu tiến hành công cuộc cải tạo, biến chính mình trở thành cỗ máy chiến tranh mạnh mẽ nhất mà xưa nay chưa từng có.

Hắn thề, sẽ không bao giờ bị tấn công khi chưa kịp phòng bị nữa, bằng cách sử dụng trí tuệ của mình để lắp ráp ra một bộ áo giáp Clockwerk hùng mạnh chạy bằng dây cót, thứ sẽ khiến cho tất cả những gã Kỵ sĩ đến từ xứ khác trông như những tên hề trong cái ống lon bằng thiếc. Có lẽ do cuộc sống của hắn không rời khỏi căn nhà cho đến khi chiến tranh tàn phá. Nên hắn chỉ nhớ tới nhân vật họ hàng của mình là Sniper và Tinker. Hắn luôn nhắc tới 2 người này dù trong lúc tấn công, lúc giết hoặc bị giết, lúc di chuyển hay là cùng phe.

- “Tinker, prepare for repairs” - (Tinker, chuẩn bị sửa chữa đi).
- “Who sniped who?” - ( Ai bắn ai đây Sniper).
- Một hero khác không cùng máu mủ mà hắn nhắc tới là một kẻ dùng hook. Đó là chàng béo Butcher.
- “Like my hook, Pudge?” - (Thích cái móc của ta không, Pudge?). Nói khi hook trúng Butcher.